Thứ Ba, 30 tháng 8, 2011

Bạn thân

Chơi chung với nhau cũng đã tròn trèm 10 năm rồi đấy nhỉ. Người ốm vẫn là Ròm và người tròn hình như cũng tâm niệm với câu "mập dễ thương" nên quyết tâm năm này sẽ dễ thương hơn năm trước.
Có lẽ điều dễ thương, tốt đẹp là kết bạn với nhau.
Cám ơn bạn vì đã đồng hành trong suốt những năm qua, đã cùng thức khuya dậy sớm khi theo dự án, đã cùng "phiêu" với hủ tíu nước rửa chén, cùng có mặt vào ngày kỷ niệm 27/9 và vô số những ngày khác...
Cám ơn bạn vì đã chịu khó nghe những cằn nhằn của mình khi mình bực bội mà không có cách nào trút.
Cám ơn bạn vì đã có mặt chia sẻ trong những lúc mình thất vọng, đau buồn nhất dù bạn chẳng nói gì mà mình cũng chỉ cần có vậy.
Cám ơn bạn vì đã ở bên cạnh những ngày trọng đại của mình để giúp một tay và chung vui với mình.
Người ta nói người bạn thân là món quà của thượng đế. Và mình thấy bạn đúng là một món quà.
Mãi là bạn nhé...

Gà nấu nấm


Mình rất khoái ăn nấm rơm vì vị ngọt tự nhiên và không độc. Khi tiền chợ eo hẹp thì nấu rơm nấu với tàu hủ, thịt nạc dăm, tép; khi rủnh rỉnh thì kết hợp với gà.
Gà nấu nấm theo Đông y thì bổ thận, tráng dương, tăng cường sinh lực (nói theo kiểu bán thuốc sơn đông mãi võ) nhưng theo mình thì gà và nấm là ăn rồi vị ngọt vẫn còn.

Cá lóc hấp


Món cá lóc là món thường xuyên của nhà, khi thì kho tộ, khi thì hấp bầu, lúc lại nấu canh với 1 bó hành; hôm nào thèm bánh tráng cuốn thì lại làm món này.
Cá lóc hấp là món dễ làm, mau chín và ăn đỡ ngán nhưng phải khéo ở công đoạn pha nước chấm chua ngot hoặc nước mắm me.

Nhân đọc bài viết của Nguyễn Diệp Mai

Đọc bài của nhà văn Nguyễn Diệp Mai thấy tâm đắc, mình lưu lại ở đây để trước hết chỉ đơn giản là đọc thấy hay sau là để nghiền ngẫm để hiểu hơn về quê hương của người mình đã lựa chọn.

Ứng xử của người U Minh qua món ăn
Khi các quần cư xã hội được tổ chức thành nề nếp, từng dãy nhà, làng xóm định cư tạo thành nếp sống nhân văn trong mọi sinh hoạt, người vùng U Minh coi sinh hoạt ăn uống là phương tiện giao lưu, gắn kết cộng đồng. Cái ăn không còn ở dạng cá nhân độc lập chịu sự chi phối của thiên nhiên mà dần dần trở thành sinh hoạt chung, tạo thành ''gu ăn chơi'', ''nhâm nhi'' - một thú vui liên kết. Có thể quan sát quan sát cách ứng xử với cộng đồng ở vùng U Minh qua một số món ăn trong những tình huống cụ thể.
1. Vài nét về dân cư và nguồn thực phẩm ở U Minh
Rừng U Minh bao gồm U Minh Thượng từ tả ngạn sông Trèm Trẹm đến hữu ngạn sông Cái Lớn thuộc tỉnh Kiên Giang và rừng U Minh Hạ từ hữu ngạn sông Trèm Trẹm xuống đến hữu ngạn sông ông Đốc. Cơ bản rừng là một thảm thực vật trong đó chiếm tuyệt đại đa số là cây tràm sống chung với dòng họ dương xỉ. Rừng U Minh có địa hình lõm lòng chảo có nhiều trũng, gò và là vùng đất hoang phế nhiều thế kỉ. Hệ sinh thái của rừng bấy giờ đang ở trong tình trạng nguyên thuỷ với hệ thống kinh rạch chằng chịt. Trên gò đất cao nhiều loài cây bụi rậm chen lẫn với sậy, đế, nga che kín. Dưới vùng trũng có năn, lác, cỏ dại, bồn bồn, sen, bông súng, cỏ co, rau muống, rau ngổ, chuối nước... che kín trên mặt nước. Mùa khô ở U Minh hoàn toàn khô hạn vì đất mùn bên trên xốp không giữ nước. Ngược lại mùa mưa gây úng lụt do địa hình lòng chảo thấp hơn các vùng xung quanh, nước thoát chậm.
Người Việt đến vùng U Minh cư trú từ trước năm 1618, công chúa Ngọc Vạn (con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả cho vua Chân Lập) đã thấy có người Việt hiện diện nơi đây từ lâu rồi. Trong buổi đầu đi lập nghiệp ở U Minh lưu dân phải bám vào rừng để sinh sống. Những phương thức kiếm sống là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với nhau thật không dễ dàng hài hoà ở nơi rừng rậm hoang sơ nầy. Khai rừng ở đây với nghĩa là khai hoang từ vùng ven vào sâu ruột rừng chứ không mở đường tiến về phía biển. Người đến đây lúc đầu đều phải dựa hoàn toàn vào nguồn thực phẩm là sản vật của rừng và tự trồng trọt để sống. Các hình thức ăn, cách chế biến phụ thuộc vào nguồn động thực vật sẵn có theo mùa nào thức ấy và dần hình thành những món ăn mang sắc thái riêng của vùng U Minh.
Đến những thập niên đầu thế kỉ XX, xóm làng vẫn còn nằm sát bìa rừng, cuộc sống bấy giờ vẫn dựa vào tự nhiên là chính. Ruộng mới khai phá còn nhiều "đất sộp" cấy lúa bốn năm chưa "trúng" được một mùa. Cái ăn ban đầu của họ vẫn chủ yếu là hái lượm, săn bắt. Để khai thác có hiệu quả kho dự trữ nầy, con người sinh sống ở đây phải từng bước nắm bắt đặc điểm, thói quen của các loại động thực vật hoang dã. Họ theo dõi từng thời vụ, từng mùa sinh đẻ, từng luồng lạch hướng đi của chúng từ đó sáng tạo ra công cụ, kỉ thuật để đánh bắt và chế biến thành thức ăn. Do lối sống cộng cư chịu tác động qua lại lẫn nhau của ba dân tộc chính Việt, Khmer, Hoa cùng sinh sống ở vùng U Minh họ đã bắt chước nhau về cách thức ăn uống, chế biến món ăn trong bữa ăn thường ngày, trong lễ lạt, cúng kiếng.
Khi ven rừng U Minh đã trở thành xóm làng, người dân đã tổ chức những tập đoàn sản xuất hay cá nhân liên đới sản xuất. Lúc nầy nguồn thực phẩm được nâng lên đến mức bán dự trữ (nửa tạo để tích luỹ, nửa săn bắt hái lượm từ tự nhiên). Chính vì vậy, cách thức chế biến món ăn lúc nầy đã tương đối có công thức để thích ứng phục vụ cho từng vụ, việc của ngày mùa. Gia vị, phụ liệu thường là những thứ sẵn có, dễ kiếm: muối, đường, nước mắm đồng, ớt, chanh, sả, gừng, nghệ, cơm mẻ, nấm mèo (mộc nhĩ)... Đến mãi sau nầy, khi việc thông thương tương đối dễ dàng mới xuất hiện thêm bột ngọt, ngũ vị hương, cà ri, củ hành tím và trắng, bún tàu... Tuy vậy, người vùng U Minh vẫn giữ thói quen nêm đường vào trong các món ăn và khẩu vị tựu chung vẫn là: mặn đậm, ngọt gắt, béo nhiều, ưa chất tươi nguyên. Món ăn thường ngày xếp theo thứ bậc gọi là ngon: nướng, chiên, xào, luộc, canh, kho. Nguyên liệu chế biến đa phần vẫn là động thực vật hoang dã và một số ít nuôi trồng được. Món ăn vùng U Minh ít thay đổi, vẫn gắn bó chặt chẽ với môi trường tự nhiên nơi sinh sống.
Hệ thực vật rừng U Minh đã được thống kê có 204 loài, 157 chi, 87 họ; hệ động vật có vú 25 loài, bò sát 33 loài, ếch nhái 11 loài. Khi dùng làm nguyên liệu chế biến món ăn có thể tạm chia như sau:
- Rau củ: bồn bồn, bông súng, củ co, môn nước, đọt choại, đọt ráng, khoai rạng, khoai từ, môn dề, rau đắng và các loại rau tạp tàng.
- Cá (cá nước ngọt): 4 loại cá rô, trê, lóc, sặc chiếm 90%, còn lại các loại cá khác: cá dầy, cá bông, cá lăn, cá thác lác, cá gầm, cá chốt...
- Loài bò sát và lưỡng cư: rắn, rùa, ếch nhái, lươn, ốc.
- Chim (thường dùng làm thức ăn): giang sen, cò quắm, diệt mốc, cúm núm, trít cồ, bồng bồng, ốc cao, chàng nghịch, cu đất...
- Ong: ong mật, ong vò vẽ.
- Thú: nai, heo rừng, chồn, trút (tê tê), kì đà, càng đước...
2. Món ăn trong sinh hoạt cộng đồng
Khi các quần cư xã hội được tổ chức thành nề nếp, từng dãy nhà, làng xóm định cư tạo thành nếp sống nhân văn trong mọi sinh hoạt, người vùng U Minh coi sinh hoạt ăn uống là phương tiện giao lưu, gắn kết cộng đồng. Cái ăn không còn ở dạng cá nhân độc lập chịu sự chi phối của thiên nhiên mà dần dần trở thành sinh hoạt chung, tạo thành "gu ăn chơi", "nhâm nhi" - một thú vui liên kết. Có thể quan sát quan sát cách ứng xử với cộng đồng ở vùng U Minh qua một số món ăn trong tình huống cụ thể:
Lễ cúng đình: Trước đây các lễ cúng đình, cúng miễu hàng năm ngoài phần lễ còn tổ chức ăn uống chung cho cả vùng. Ngày rằm tháng Giêng là ngày thượng ngưu lễ cúng diễn ra ở đình hay miễu bà Chúa Xứ. Món cúng thường là heo tơ quay nguyên con, gà tơ và vịt trắng luộc nguyên con. Con vật được dâng cúng phải mổ thật khéo, phải uốn sửa sao cho nhìn như con vật đang nằm ngay ngắn. Thịt con vật cúng phải chín nhưng da không được nứt. Ngoài các món thịt, lễ vật cúng thường có các loại bánh: bánh cấp, bánh cúng, bánh ít, bánh quy, bánh bò và các loại trái cây, rượu trắng, nước lã. Ngoài lễ vật dâng cúng còn nấu thêm món lẩu thập cẩm, thịt kho, món xào. Cúng lễ xong, người ta đem lễ vật cúng xuống chia thành mâm, bày cùng với các món khác để cả làng cùng hưởng. Các cụ lớn tuổi được xếp ngồi mâm trên hoặc ngang hàng với các quan chức. Khi bắt đầu ăn người lớn tuổi nhất cầm đũa thì bữa tiệc mới bắt đầu, người xung quanh mới dám gắp thức ăn.
Mâm cổ Tết: Ba ngày tết nhà nào dù nghèo hay giàu đều có chuẩn bị mâm cơm tết đàng hoàng. Trang trí và lễ vật bàn thờ tết bao giờ cũng phải có: một cặp dưa hấu để trên hai cái dĩa lớn bên dưới lót hai nải chuối xiêm thật già; phía ngoài bên trái là dĩa bánh tét chưng hai đòn hoặc bốn đòn, bên phải là dĩa bánh ít xếp đều nhưng cũng phải là số chẵn. Mâm cơm rước ông bà chiều 30 Tết gồm: một con gà (hay vịt) luộc nguyên con luộc, thịt kho trứng vịt, dưa cải tùa xại, bánh tét cắt khoanh, khổ qua hầm. Nhà nào khá giả thêm món vịt tiềm, hay thịt kìa hoặc xào... Tết trong nhà nhất thiết phải có món thịt kho trứng vịt. Người ta quan niệm ngày tết trong nhà có nhiều thức ăn ngon thì năm mới sẽ được sung túc phát đạt hơn.
Tiệc tang, giỗ chạp: Tập tục ở vùng U Minh là gia đình có tang thường đãi khách đến viếng trước khi vào bàn ăn tiệc mặn bằng trầu cau, thuốc lá, bánh ngọt thường là bánh men và nước trà. Nhà có tang thường phải "chạy" cho được con heo để làm tiệc mặn thết đãi bà con, bạn bè, người đến phúng viếng giúp lo việc chôn cất trong khi gia đình bối rối. Món ăn trong tiệc tang thường có từ 3 - 4 món: cháo lòng (cháo nấu với huyết, lòng, thịt đầu), thịt kho rệu, xương hầm rau củ hoặc món xào rau cải, thịt khìa.
Người vùng U Minh lấy ngày chết là ngày giỗ hàng năm. Đám giỗ nhà nghèo thường đơn giản nhưng dù túng thiếu vẫn phải kiếm được con gà, con vịt, chí ít cũng phải có cá, lươn để làm mâm cơm cúng người quá cố không quá đạm bạc. Những nhà khá giả thường tổ chức đám giỗ linh đình trong ba ngày: tiên thường, chánh giỗ, hậu thường. Món ăn chính gồm: vịt hoặc gà luộc nguyên con sau khi cúng xong chặt trộn gỏi; món hầm (người Việt thường hầm khổ qua, người Hoa thường hầm với củ cải muối gọi là xá bấu); món xào; món khìa hoặc cà ri; món kho. Bánh tét và bánh ít là hai món bánh chủ lực đãi khách. Bà con họ hàng, người quen biết đều được mời đến dự. Khi người đến dự ra về gia chủ thường gói món nầy hay món nọ để gởi "biếu ông bà" hoặc "mấy đứa nhỏ" ở nhà ăn lấy thảo.
Tiệc cưới hỏi: Tiệc đám hỏi đãi thông lệ đãi bốn món trở lên: vịt tiềm, chả giò, gỏi cuốn, cà ri hoặc la gu. Nếu nhà mổ heo thì sẽ có thêm món lẩu thập cẩm và thịt kho rệu. Tiệc đãi dọn một lần, cách nấu nướng và bày trí đơn giản hơn tiệc đám cưới.
Tiệc đám cưới dù lớn hay nhỏ cũng phải mổ heo. Mâm tiệc cưới thường có 6 món: chả đầu heo, vịt tiềm, món khìa, lẩu thập cẩm, cơm rang thập cẩm hoặc cơm hấp với thịt gà, thịt kho rệu. Món tráng miệng thường là trái cây hoặc các món bánh ngọt tự làm: bánh bông lan, bánh bò, bánh da lợn, bánh kẹp. Nhìn chung tiệc cưới hỏi ở vùng U Minh thường thích linh đình, thoải mái và hơi phô trương.
Tiệc đầy tháng, tiệc thôi nôi: Người vùng U Minh có thói quen tổ chức tiệc đầy tháng, tiệc thôi nôi (đầy năm) cho con cháu. Tiệc không quan trọng việc cúng tế mà chủ yếu là tiệc ăn mừng. Tiệc đầy tháng là tiệc ăn mừng mẹ tròn con vuông. Tiệc thôi nôi là tiệc mừng đứa bé tròn năm khoẻ mạnh. Trong tiệc thôi nôi người ta bày một cái mâm trong đó để nhiều thứ như nắm xôi, cái lược, cái gương, giấy viết, đồ chơi. Sau khi cúng xong người ta sẽ mang cái mâm xuống để cho đứa bé chọn bắt một món và tiêm đoán vận mệnh đứa bé theo món đồ nó bắt được. Ví dụ như nếu đứa bé lấy giấy viết thì họ cho rằng sau nầy nó sẽ theo con đường học hành, chữ nghĩa. Đứa bé bắt nắm xôi thì sau nầy nó sẽ gắn với việc ruộng đồng.
Mâm cơm đãi khách: Ông bà có câu: "Khách đến nhà không gà thì vịt", ở vùng U Minh câu thành ngữ nầy được thể hiện rất cụ thể. Khi khách đến nhà dù trong nhà chỉ có con gà đang ấp trứng họ cũng sẽ làm thịt và luộc luôn ổ trứng để đãi khách. Đó là tính hiếu khách, cởi mở của người vùng U Minh. Mâm cơm đãi khách ở vùng U Minh không có quy tắc ổn định, tuỳ theo mùa có món đặc sản gì thì đãi món ấy. Có lúc chủ nhà mời khách mắm kho khi mùa không có gì ăn. Nếu đúng mùa có thức ăn dồi dào, khách có thể được mời ăn món ăn đặc sản: cháo cá lóc rau đắng đất, canh chua chuột, lươn um rau ngổ, rùa, rắn, thịt thú rừng... Bữa ăn đãi khách thường không làm nhiều món mà chỉ có 2 - 3 món để khách thưởng thức được tập trung. Mâm cơm không quan trọng bày biện đẹp mắt mà chủ yếu là ngon và nhiều, ăn phải dư chứ không được thiếu. Nhiều khi khách đến thăm, gia chủ làm thức ăn nhiều hơn để mời hàng xóm đến chung vui. Nếu khách ở xa về thăm bà con ở xóm thì hết nhà nầy đăng kí mời đãi, rồi đến nhà khác, cứ thế mà xoay vòng khách trở thành người thân của cả xóm. Tính cách người vùng U Minh cởi mở, thích giao lưu để có nhiều bạn bè để lúc "tối lửa tắt đèn", khi hoạn nạn có người giúp đỡ.
Món ăn dịch vụ: Vào những thập niên đầu thế kỉ XX, sinh hoạt cộng đồng của vùng U Minh đi vào nề nếp, ngoài việc ăn uống giao hảo xóm làng, loại hình dịch vụ ăn uống đã xuất hiện như bún nước lèo trên sông, xương xáo, nước đá bào xi-rô, bánh cam, bánh lá dừa, bánh lọt, bánh tằm... Từ khi dịch vụ ăn uống xuất hiện việc sinh hoạt ăn uống của người dân vùng U Minh có phần tiện lợi hơn. Lúc bận nhiều việc người ta có thể mua thức ăn chế biến sẵn, nếu không có tiền thì đổi bằng lúa hoặc gạo, dừa khô, chuối... các thứ nông sản có sẵn trong nhà. Cách trao đổi đó thuận tiện cho người bán lẫn người mua. Từ thập niên 40 về sau, làng xóm ở vùng U Minh trở nên đông đúc, theo các ngã ba, ngã tư đã có tiệm tạp hoá và vài quán cóc bán thức ăn và rượu đế. Tối tối người ta tụ tập lại quán uống nước đá, hút thuốc thơm, ăn vài ba cục kẹo chuối, kẹo gừng hay ăn vài cái bánh quai chèo lót dạ đi ngủ. Sau dần ở quán buổi sáng có nồi cháo gà, cháo cá, bánh canh; buổi chiều có vài món nhậu nhâm nhi như khô lạt, cá, rắn, chim nướng lèo... uống với rượu đế. Sau nữa những nơi tụ hội đó xuất hiện thêm quán cà phê, hủ tíu của những người Hoa kiều từ chợ vô che quán bán cho dân thương buôn trên sông. Tuy vậy người vùng U Minh vẫn thích dùng sản vật địa phương hơn thức ăn chế biến của người Hoa kiều vì vừa rẻ tiền vừa hợp khẩu vị.
3. Tính cộng đồng qua món ăn ở vùng U Minh
Ở vùng U Minh khi lên mâm cơm nếu có món rùa, rắn, gà, vịt thì lá gan, còn nếu cá lóc thì bộ đồ lòng được coi là món ngon nhất. Những phần nầy bao giờ cũng dành cho người lớn tuổi nhất hoặc vai vế họ hàng lớn nhất hay vị khách đến nhà cùng ăn cơm. Món ăn chế biến bằng cá lớn thì khúc đầu và giữa được múc lên mâm ông bà, cha mẹ. Ăn cá thì phải dẽ từ đuôi lên đầu, từ bụng lưng. Trước khi bắt đầu bữa ăn người nhỏ nhất nhà có nhiệm vụ đi mời tất cả người trong nhà lên ăn cơm, khi ngồi vào mâm và bắt đầu ăn thì sẽ không mời nữa. Trong mâm cơm người lớn tuổi nhất nhà chưa cầm đũa mà người nhỏ hơn đã gắp thức ăn thì sẽ bị coi là vô lễ. Vẫn với nếp truyền thống "mâm cơm chung" của người Việt, mâm cơm ở vùng U Minh vẫn chung một nồi cơm, một nồi canh, một mẻ kho... Họ còn có thói quen chung khác là "nhậu chung": chung một chai rượu, một li rượu, người nầy uống xong sẽ rót tiếp vào đến người khác uống. Thường là trong tiệc nhậu để thể hiện tình cảm của mình, hai người sẽ cùng chia đôi mỗi người sẽ uống nửa li ruợu. Sau đó sẽ rót một li cho hai người khác.
Món ăn trong bữa cơm thường chế biến phù hợp với hoàn cảnh khí hậu địa phương. Canh rau thường có nhiều loại mang tính giải nhiệt. Món xào, kho thường tẩm ướp gia vị mang tính nhiệt như tỏi, sả, ớt, tiêu, gừng... ngoài việc tăng phần thơm ngon cho thức ăn còn giúp ngăn ngừa một số bệnh dịch thời tiết. Trong quá trình chế biến món ăn họ đã đúc kết được khá nhiều món ăn mang tính trị bệnh: ban đỏ, mát gan, chống loét bao tử, chống nhức mỏi, bổ thần kinh.
Ngoài giá trị vật chất ăn no để tồn tại, các món ăn trên mâm cơm còn là phương tiện nối kết các thành viên trong gia đình: chồng đi bắt cá, vợ đi kiếm rau; chồng tìm thực phẩm, vợ chế biến phục vụ cả nhà. Bữa ăn thường phải có đầy đủ mặt các thành viên trong nhà, nhất là người cha. Món ăn ở vùng U Minh còn là sợi dây liên kết láng giềng. Một người bắt được cá lớn, rùa, rắn, săn được thú... có được sản vật gì ngon nếu nhiều sẵn sàng đem chia cho hàng xóm, nếu ít chế biến xong kêu con cháu bưng qua nhà bên canh một tô, một dĩa. Nếu không đủ chia họ sẽ mời ông chủ nhà bên cạnh qua cùng nhậu cho vui. Họ cùng nhau đi tìm nguồn thực phẩm: cắm câu, giăng lưới, đặt lợp, đặt trúm, đâm chuột, lội ong, lội trứng chim... về cùng chia nhau. Lễ cúng đình, cúng miếu người góp của, kẻ góp công, cúng kiếng xong sẽ chia mâm đều nhau để cùng hưởng. Những bữa ăn hội hè đó càng gắn kết chặt chẽ tình cảm của người tứ xứ đến đây lập nghiệp.
Món ăn ở vùng U Minh là biểu hiện của sự dung hợp văn hoá của ba dân tộc chính Việt, Khmer, Hoa cùng chung sống nơi đây. Người Việt cũng ăn mắm bò-hóc của người Khmer, thịt kho rệu với trứng vịt, hủ tíu, mì sụa của người Hoa. Người Khmer thích ăn bánh tét, bánh xèo của người Việt. Người Hoa cũng ăn mắm đồng, bún nước lèo trên sông. Những dịp đâm cốm dẹp, cả xóm cùng tham gia không phân biệt là ai. Khi lễ tết, hội hè họ cùng vui chung không phân biệt là lễ hội của dân tộc nào cả. Qua món ăn ý thức phân biệt cái "riêng" của cộng đồng dân tộc ở đây gần như đã bị xoá nhoà.
Trải qua nhiều thế hệ, việc đúc kết kinh nghiệm chế biến mỗi món ăn bằng những loại thực phẩm gì, liều lượng, thời gian nấu đã trở thành kho tàng tri thức dân gian của vùng U Minh. Tri thức đó được thể hiện bằng những món ăn cụ thể hàng ngày trong gia đình tạo thành nét sinh hoạt riêng của một vùng. Người U Minh xưa săn thú, bắt chim bao giờ cũng chừa lại con đang mang trứng hoặc đang nuôi con. Họ lấy mật ong thì chừa lại khúc tàng ong non hoặc nếu cần ăn thì chỉ xẻo một phần đủ dùng. Cặp cá lóc đang nuôi con "ròng ròng" thì chỉ bắt một con. Khi hái lượm rau củ, họ chừa lại phần gốc hoặc củ cái để mùa sau cây tiếp tục phát triển. Người U Minh xưa có thái độ ứng xử với thiên nhiên rất rõ ràng, luồn dành lại một phần để thiên nhiên tiếp tục phát triển. Cách ứng xử đó thể hiện sự hài hoà trong mối quan hệ giữa co người và tự nhiên, dựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Do sự xâm nhập của sinh hoạt thành thị đã làm biến đổi nhiều đến nếp sống, cách sinh hoạt của người dân ở đây. Môi trường tự nhiên của vùng U Minh biến đổi hầu hết trong những thập niên gần đây. Nguồn tài nguyên động thực vật đã cạn kiệt do chiến tranh, do sự khai thác vô tội vạ, sự thiếu ý thức trong việc bảo tồn nguồn lợi của thiên nhiên. Từ năm 1945 trở về sau, các cuộc di cư khai phá rừng ngày càng nhiều, sự tàn phá của bon đạn chiến tranh cùng các trận cháy rừng lớn xảy ra liên tục rừng U Minh đã bị tàn phá đến mức gần như kiệt quệ. Thế hệ trẻ ở vùng U Minh bây giờ thiếu ý thức giữ gìn và vô tâm tiếp tay phá hoại môi trường tự nhiên khiến cho rừng U Minh gần như không còn vết tích của rừng tự nhiên. Một số món ăn được chế biến bằng sản vật của rừng như thịt thú hiện này không còn vì không có nguyên liệu. Kho tàng tri thức về chế biến món ăn đang mai một dần theo sự ra đi của lớp người khai rừng U Minh cuối cùng.

Lẩu mắm

Lẩu mắm có nguồn gốc từ Cần Thơ, ban đầu còn được gọi là lẩu mắm Ninh Kiều. Mình sinh ra & lớn lên ở Cần Thơ nên cũng tập tành nấu món này.
Ấn tượng vị giác của lẩu này là nước lèo được nấu từ mắm. Nhà mình chỉ thích ăn mắm sặc và mắm lóc. Để mùi mắm được át đi, mình dùng sả đập giập và sả bằm phi vàng. Hầu như không nêm gì ngoài chút đường. Nồi mắm sẽ hơi mặn để khi nhúng cá, tép, mực và rau vào sẽ vừa....

Ốc luộc sả cho những ngày mưa

Ăn ốc khi trời mưa có rất nhiều cái thú. Thứ nhất, mùa mưa cũng là lúc ốc chui ra ngoài sau những tháng ẩn mình tránh nắng nên mùa này ốc rẻ và mập. Thứ hai, trời mưa, khí trời lành lạnh, ngồi tỉ tê khều, gỡ ốc với xung quanh là mùi sả, ớt làm người như nóng lên. Nhưng muốn ăn cũng phải lắm công phu: Ốc đem về phải ngâm nước vài ngày. Muốn ăn liền phải ngâm nước gạo, thêm một ít ớt hiểm, ớt cay, ốc há miệng, thay nước liên tục chờ chất dơ ra sạch. Rửa ốc để luộc thì nhớ là không được xóc. Lúc luộc ốc lửa phải lớn, nếu chưa sôi thì không được mở nắp nồi, không được trộn ốc lên như vậy thì con ốc khi gỡ ra sẽ không bị đứt ruột. Nếu lúc luộc mà có vỏ khóm bằm càng làm cho món ốc thênm ngon. Bí quyết còn nằm ở nước chấm. Nếu mà pha không đúng thứ tự thì sẽ không làm cho chén nước chấm hấp dẫn đâu à nhe...

Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2011

Lẩu chua

Các tiệm tạp hóa thường bán các gia vị đóng gói để nấu lẩu nhưng mình dị ứng với các loại này. Mình khoái ăn chua nên chủ nhật hay khi rảnh vào bếp thường nấu. Nước dùng làm lẩu chua có thể chọn từ chanh, lá giang, me tươi, trái sấu, cơm mẻ hoặc giấm. Đối với món lẩu chua thập cẩm này thường dùng me tươi. Nếu muốn cay có thể thêm ớt sừng trâu. Nếu nấu lẩu hải sản có thê thêm sả dập giập. Nói chung là có thứ nào tận dụng thứ ấy....

Nướng cúm núm


Cúm núm hay còn được gọi là gà nước. Con trống có lông màu nâu, có lốm đốm bông đen, đặc biệt, cúm núm trống có mòng đỏ thì lông đen ô, chỉ khoảng 300 – 400 gam. Tuy không có bộ lông sặc sỡ nhưng bù lại khi sống thì có tiếng kêu thuộc bậc thầy của các loài chim nước "cúm, cúm cúm, cúm". Người đa cảm thì gọi đó là tiếng kêu vừa điệu đàng thân thiết, vừa xôn xao man mác buồn; người có tâm hồn ăn uống thì nói đó là loài chim trời ồn ào chỉ có thịt dâng cho người là số dách. Thịt cúm núm ngon hơn thịt gà và được chế biến thành nhiều món. Thường vào quán người ta hay làm món cúm núm xào bầu, cúm núm khìa nước dừa, cúm núm chiên, cúm núm quay lu... Nói chung món nào cũng ngon, cũng tuyệt cú mèo...
Ở nhà, (nhờ sự đạo diễn của chồng) thì đã thực hiện 2 món là cháo đậu xanh và nướng. Món cháo đậu xanh thì để vào một ngày đẹp trời nào post cho mấy bạn. Món này là món nướng, vừa dân dã vừa dễ ẹt, vừa thơm và ngon...

Gà nấu chanh

Tính tình dễ hòa đồng nên mình đi đâu cũng có bạn, "tứ hải giai tỷ muội" mà; và nhóm bạn thể dục thẩm mỹ là nhóm thường xuyên kêu réo và tụ tập nhất trong vòng 8 năm trở lại đây.
Nhóm gồm có khoảng 10 người, chơi chung với nhau từ khi còn ở phòng tập Thúy Sơn. Đến nay, dù đã đổi chỗ tập đến mấy lần nhưng nhóm vẫn đi chung, vẫn tình thương mến thương và vẫn tụ họp trung bình 2,3 tuần một lần. Trong nhóm mình là nhỏ nhất, cũng được chìu chuộng nhất. Mấy chị, hầu hết U50, chị nào cũng thành đạt và khéo tay. Món này được một chị trong nhóm chỉ cho mình nấu.
Thật ra thì đơn giản lắm. Chanh lựa trái mọng nước, vỏ mỏng hơi ươm, da căng bóng. Chịu khó ngồi gọt bỏ lớp vỏ xanh, tách nhẹ lấy cơm và nước nấu với nước xương gà; phần thịt gà ướp chút muối ớt, bột nêm chờ xương gà mềm là bỏ vào nấu chung. Rau ăn chỉ là quế và ngò gai.
Dĩ nhiên là gà nấu chanh khác với vị của gà nấu lá giang. Cũng là vị chua nhưng món này có vị chua rất thanh. Húp vào nghe ấm tới tận ruột.
Mấy chị thường nói tập cho khỏe để ăn cho ngon miệng, thoải mái. Cũng đúng, có đi tập thì ăn "mạnh miệng" hơn một tí tì ti.

Đàn gà con


Mười quả trứng tròn
Mẹ gà ấp ủ,
Mười chú gà con
Hôm nay ra đủ
Lòng trắng, lòng đỏ
Thành mỏ, thành chân.
Cái mỏ tí hon,
Cái chân bé xíu
Lòng vàng mát dịu
Mắt đen sáng ngời
Ơi chú gà ơi !
Ta yêu chú lắm.
PHẠM HỔ

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

Người cũ

"Người cũ không gặp không tìm
Mà sao bờ giậu bìm bìm cứ leo..."

Sáng qua chat với bạn, bạn than rằng "Tao mới gặp người cũ". "Rùi sao?". "Thấy bùn bùn nhớ chuyện hồi xưa". "Thui mày ơi... Giờ mày hạnh phúc wá rùi nhớ chi cái cũ...". "Bik rùi, nhưng cảm giác khó chịu cứ theo tao hoài...".
Bạn cứ chat, hình như chỉ để tỏ bày tâm sự...
Ừ, thì là người cũ, người xưa. Ai mà không có. Người cũ thường là tình đầu. Mà cái gì đầu bao giờ cũng đẹp, cũng tuyệt vời. "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở..." mà. Nhiều khi chỉ là một ánh mắt, một nụ cười, cái răng khểnh, cái lúm đồng tiền,.. mà giờ có người nhớ lại vẫn còn đau, còn nuối tiếc. Cũng có người giờ người cũ trở thành bạn tâm giao, vì chẳng mấy ai hiểu mình nhiều như vậy (dù số đó, được mấy người). Có khi người cũ trở mặt, làm khó nhau trong cuộc sống hiện tại (cũng không hiếm). Cũng có khi người cũ gặp trên phố mình cố tình cuối mặt (thì đã là người dưng rồi mà)... Người cũ nhạt nhòa cả trong lời hẹn ngày xưa, nhạt nhòa trong cuộc sống bận rộn, thỉnh thoảng mới nghe nhắc tới vô tình trong đám bạn cũ hay vô tình gặp lại như bạn. Và lại thoáng chút xao lòng...
Biết bao lời định nói với bạn, đừng coi người cũ là toàn mỹ như kiểu "con cá vuột là con cá lớn". Bạn hãy nghĩ xưa mình và người ấy đã cùng xây mơ ước trên cát biển và giờ sóng đã cuốn trôi. Dĩ nhiên có buồn, có ngơ ngác, có hụt hẫng, có rơi chút nước mắt. Cái đẹp của tình cũ như ly nước mát giữa trưa hè, kiểu cái đẹp của tuổi dại khờ: vụng về và thơ ngây nhưng là cái đẹp đã được bơm phồng, để rồi vỡ òa. Và cũng đừng so sánh người cũ với người hiện tại. Bạn đã chọn người hiện tại và hãy làm hết sức để học cách yêu thương để chứng tỏ rằng mình đã lựa chọn đúng, để người xưa nhạt nhòa và chỉ còn hình ảnh của người bên cạnh bạn. Gia đình nhỏ của bạn đã rất vui rồi v.v... Có nhiều lời định nói nhưng rồi lại nghĩ chẳng biết nói gì thêm với bạn khi việc đó như là phản xạ tự nhiên...
Hạnh phúc thay cho ai có người cũ là người hiện tại. Tình đầu là tình cuối. Yêu chỉ một và chỉ một mà thôi. Để khỏi phải lấn cấn, bận lòng...
Mà nếu lỡ có lấn cấn bận lòng, xao lòng thì chỉ nên trong giây lát. Giống như nhà thơ Thuận Hữu đã viết "Mà có trách chi những phút xao lòng. Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ. Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ. Đừng có trách chi những phút xao lòng"...
Mình biết bạn hay đọc blog của mình... Nhớ nhen, mình vẫn muốn ở bên bạn nghe bạn kể về người nay của bạn....

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Mùi cari

Hồi nhỏ, mình có đọc một câu chuyện và lấy tâm đắc với nó. Câu chuyện này đã cùng đồng hành với mình cho mãi đến giờ. Nội dung đại khái chuyện kể về một ông lão có thói quen ngủ ngày. Đứa cháu trai nghịch ngợm có bôi lên râu của ông một ít bột cari. Đối với một số người, bột cari rất thơm nhưng một số thì nói "hôi khủng khiếp". Ông lão thức dậy và cảm thấy giường ngủ của mình có mùi hôi. Ông đi ra phòng khách vẫn thấy mùi hôi lẩn quẩn và chịu không nỗi ông bước ra đường. Hít một hơi ông cảm thán than lên rằng "trời ơi sao cả thế giới này hôi thế không biết!"
Câu chuyện kết thúc ở đấy. Hôm nay, chợt nhớ ra vì bạn Đ.N nhận xét một câu làm mình nhớ đến ông lão trong câu chuyện ngày xưa. Bạn ơi, bạn thấy thế giới này không hoàn hảo, bạn thấy mình đây không hoàn hảo, bạn thấy cần phải sửa cái này cái kia cho trọn vẹn, bạn thấy xung quanh đều xấu, đều dối trá, đều lừa lọc...
Bạn Đ.N ơi, bạn có nhìn lại mình trước không???

Bánh bột lộc bọc tôm thịt

Mẹ là con gái Huế nhưng đi học xa và tham gia kháng chiến nên không học được những món ngon của bà ngoại. Giờ khi con cái đã lớn, cháu nội đi học bán trú suốt ngày và chưa có cháu ngoại nên khi rảnh mẹ thường hay rủ bà làm bánh. Bà ngoại mình đã hơn chín mươi tuổi. Bà chính gốc từ Huế nên có rất nhiều món ngon. Một trong những món đó là Bánh bột lọc bọc tôm thịt.
Bánh này khá nổi tiếng bên cạnh các món bánh nậm, bánh giò,...Ai đã đến Huế một lần đều có thể thưởng thức và trầm trồ với hình dáng của chiếc bánh. Khi làm xong bánh có hình chiếc gối nhỏ, khi chín bánh trong hiện rõ được cả nhân bên trong là tôm và thịt. Và đó cũng chính là tên gọi của bánh. Nhưng để làm được như vậy cần nhiều kinh nghiệm. Thứ nhất là vỏ bánh. Bột phải chính gốc là bột sắn không pha mà các ôn cậu và bà mợ gửi vào. Một phần bột được nấu nước sôi nhồi kỹ với số bột còn lại. Thực ra, giai đoạn này rất khó vì không khéo thì bột khô dễ vỡ mà nhão quá thì khi hấp hoặc luộc bánh lại không ngon. Thứ hai là nhân bánh: thịt heo phải chọn có nạc có mỡ, tôm phải lựa vừa phải không nhỏ quá mà cũng không lớn quá sẽ có vỏ dày không ngon. Nhân bánh được nêm cho vừa miệng và xào cho chín. Sau khi vắt thành bánh, bánh được gói bằng lá chuối (hoặc có thể không gói) và hấp cách thủy. Vớt bánh vào nước sôi để nguội thì màu vàng của bột chuyển sang màu trắng trong. Đợi bánh nguội thêm mỡ hành và nước chấm là có thể dùng. Nước chấm thường là nước mắm pha với chanh, đường và ớt bột (cái này cũng gửi từ Huế vào).
Chủ nhật nào thấy con gái rảnh thì mẹ cũng rủ con làm. Thực ra, bánh này dù làm nhiều lần nhưng "phong độ" không ổn định. Bà ngoại giờ đã cao tuổi, mẹ thì mắt cũng không rõ như trước, con gái thì không có nhiều kinh nghiệm trận mạc... Nhưng hình thức không quan trọng, dù bánh lớn hay bánh nhỏ, có là gối hay không, thỉnh thoảng vẫn có vài con tôm bị lọt ra ngoài nhưng hai vợ chồng vẫn nhiệt tình ăn hết. Đó là cái thú vị sau khi vào bếp...

Bánh tét đầu tay






Lần đầu tiên được hướng dẫn và gói, buộc dây. Dù không đều, không đẹp và tốn rất nhiều thời gian so với mọi người. Thỉnh thoảng còn phải chèo kéo người kế bên là chế hai và mẹ. Nhưng dù sao cũng là đầu tay. Một kỷ niệm đáng nhớ những ngày về chuẩn bị đám giỗ.

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

Bí Vàm Răng hầm móng heo

Loại bí này được trồng và bán phổ biến ở Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng. Trái tròn dẹp, có khía, nặng 3 - 5 kg, trái già màu vàng, vỏ hai da, thịt dầy, dẻo, màu vàng tươi. Bí khi hầm xong có vị ngọt, thịt bí dẻo.
Bí hầm với xương, thịt nạc hay tôm đất đều ngon. Khi nấu thêm nấm rơm, hành, ngò hoặc thêm chút đậu phọng là khỏi chê. Nhà thỉnh thoảng mới nấu món này vì hầm xương hay móng heo cần nhiều thời gian và công hớt bọt.

Lươn om trau ngổ

Chủ nhật rảnh rỗi mới làm món này. Món lươn om công phu ở giai đoạn chuẩn bị. Với 3 con lươn vừa ăn được làm sạch nhớt bằng tro và giấm, còn kèm theo lặt rau ngổ non rửa sạch ngâm nước muối loãng. Cần thời gian để rang vàng đậu phọng và vắt nước cốt, đâm nhuyễn tương hột. Món này có thêm chút bột nghệ, ớt, sả bằm, sả bó đập dập để giảm bớt mùi tanh của lươn. Thích nhất là rau ngổ. Bình thường ăn rau ngổ có vị đắng, nhẫn nhưng tuyệt nhiên khi kết hợp với lươn, nước cốt dừa thì hoàn toàn biến mất cái vị đắng, chỉ còn vị béo và ngọt. Ăn món này phải ăn nóng kèm với bánh mì hoặc bún, nhưng mình thích ăn không hơn. hihi...

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

Cari gà

Mấy món này rất ngại nấu. Quả thật khi nấu rồi ngửi mùi dừa nhiều quá là hết muốn ăn hoặc ăn không nhiều nên thích nhất là được người khác nấu cho thưởng thức. Tô cari gà này được bác sui nấu cho. Bác sui khéo tay và nấu nướng rất ngon. Lần nào qua nhà mình cũng mon men xuống bếp học lóm vài chiêu. Bác nấu kèm khoai lang bí với khoai mì kè làm cho món cari có nét đặc trưng rất riêng. Món này giàu năng lượng bởi thịt gà, lòng gà, khoai và nước cốt dừa nhưng cũng khích thích gia vị nhờ có vị cay của lá cari, bột cari và ớt, sả.
Ăn kèm là bún hoặc bánh mì hay cơm đều ngon. Trước khi ăn chuẩn bị một chén muối hột đâm nhuyễn với ớt xanh và 1 lát chanh.
Giờ muốn thưởng thức lại hương vị cũ thì không được nữa rồi... Nghĩ mà buồn, mới đó mà giờ đây....

Giá của những tiếng thở dài...

Thời gian đúng là không chờ đợi ai. Quay qua quay lai đã là hết năm. Và chỉ vài tháng trở lại đây mà thấy mình già hơn cả mấy tuổi. Người ta nói đúng "Phụ nữ tôn thờ sự bình yên". Khi có dấu hiệu bất ổn là phụ nữ sẽ lo lắng và thở dài.
Là phản xạ vô thức nhưng rõ ràng khi thở dài nỗi buồn hình như nặng nề và sâu hơn. Nhiều khi hãy nghĩ đơn giản hơn cho cuộc sống nhẹ nhàng mà sao không được. Tự hỏi mình vì ấp ủ quá nhiều ước mơ hay lúc nào cũng cầu toàn cho tất cả sự việc. Lại nghĩ nếu được quyền biết trước được tương lai liệu mình có dám nhìn thẳng vào hay không. Hoặc nếu cuộc sống theo một lập trình đã cài đặt sẵn liệu có vui hơn hay không, hay sẽ bão hòa về cảm xúc nếu không có những bất ngờ.
Với bản thân dù đã chuẩn bị tinh thần để không tuyệt vọng nhưng vẫn không tránh khỏi thất vọng. Dẫu biết rằng tất cả chỉ là tương đối không thể thay đổi sao vẫn tự giày vò mình. Vẫn phải sống, vẫn phải ráng đọc "Quẳng gánh lo đi mà vui sống" để coi "Tất cả chỉ là chuyện nhỏ". Nhưng thỉnh thoảng vẫn nghĩ lan man và lại thở dài.
Biết làm sao được khi mình cũng là phụ nữ.

Kỷ niệm ngày phát hiện có cọng tóc bạc đầu tiên...

Đi chợ thời bão giá

Nằm nhà hơn một tháng và cũng gần 3 tháng mới tái xuất giang hồ. Có đi chợ mới thấy cái khổ của người nội trợ trong thời buổi giá rau tăng theo giá vàng như hiện nay. Cái "bữa hổm" mới mua gà có 70K/kg mà hôm nay 85K, cái "bữa hổm" cá lóc đồng có 65K giờ đã 80K...
Cũng khổ, một bữa cơm muốn ngon thì dĩ nhiên là phải lựa chọn đồ ngon. Rồi món ăn cần phải đầy đủ theo thực đơn, đủ gia vị. Giờ đi chợ cũng phải vận dụng đầu óc của master tính toán coi nên mua cái gì vừa phải an toàn vệ sinh thực phẩm, vừa ngon, bổ mà hợp túi tiền, và phù hợp sở thích của mọi người trong nhà. Thiệt là phức tạp. Bởi vậy, lý thuyết bao giờ cũng khác xa với thực tế. Vì nhiều khi idea thì nhiều vô kể nhưng nếu ngày nào cũng như vậy thì lại lở dở cho những kế hoạch khác.
Một tuần tranh thủ rủ rê chồng một lần đi chợ quê. Chợ quê cũng có nhiều món lạ và rẻ. Nói là chợ quê chứ thật ra là hơi xa trung tâm thành phố một chút. Có điều phải đi từ sớm tinh mơ và chịu khó lựa. Những món đồ chợ quê thường không được bóng bẩy như mua ở siêu thị. Có đôi khi phải lựa thật lâu vì theo người bán quảng cáo thì "trái này không có xịt thuốc sâu nên mới đèo và sâu như vậy". Đi chợ quê cũng không cần trả giá kỳ kèo vì thực tế có kỳ kèo cũng chẳng giảm được bao nhiêu. Thích nhất là chọn được những món lạ và rẻ hơn ở các chợ gần nhà nhưng thiệt là cũng hơi tốn công và tốn xăng một tí. Đi chợ quê còn là dịp để cho chồng nghe vợ ca thán bài ca của giá cả mà về chăm bón thêm bụi hành, cây ớt, gốc gừng sau nhà, và dịp chính để hai vợ chồng tung ta tung tăng sau 1 tuần làm việc mệt nhọc.
Ở nhà mẹ dạo này cũng chuyển sang mua than về cho những món hầm và nướng thay cho bếp gas và điện. Cái lò nướng bị dẹp vào một góc kho với lí do tiền điện quay một con gà gần bằng nửa con gà. Giờ thú ăn tiệm cũng gia giảm trước hết vì kinh tế. Sáng tranh thủ dậy sớm nấu đồ ăn sáng tại nhà. Dĩ nhiên cũng có khi không ngon bằng ngoài quán nhưng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Món ăn cũng ưu tiên luộc hấp chứ không có cầu kỳ như trước nữa.
Lạm phát đã ảnh hưởng đến bữa cơm của một số nhà, và phần nào đó có nhà của mình. 1 tuần đi chợ có một lần mới hiểu được nỗi cực nhọc của mẹ. Tự nhiên sẽ không thấy thèm cái này, cái kia như trước nữa...Nhưng bão giá thì bão giá, chuyển các món gà vịt sang các món đồng quê như ếch, cá, tép... Nếu trước mua loại tép lớn giờ chuyển sang tép nhỏ hơn, trước hay mua chả cá thác lác giờ mua chả cá mè vinh,... Bà thịt heo, thịt bò lên giá thì cho bả ngồi ngáp ruồi, ngáp ngắn ngáp dài... Chiêu này ông bà ta hồi xưa đoán trước có nói là "liệu cơm gắp mắm"...Ráng nín thở chờ "lên lương".

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

Chấp nhận và đương đầu

Một đứa bạn nhận xét "đọc blog mày tao thấy vui vui, thấy mày có tình cảm ghê ta, dù hơi sến, mày có khi nào buồn không sao thấy cuộc sống mày toàn màu hồng không vậy?"
Có chứ. Có những giai đoạn thật sự khó khăn, thật sự cảm thấy bế tắt. Như những ngày vừa qua. Hạnh phúc xen lẫn niềm vui và hồi hộp. Nhưng rồi mọi việc cũng không êm xuôi. Khi bạn bè, những người xung quanh gặp khó khăn và họ lo lắng mình luôn an ủi "rồi sẽ ổn" nhưng đến mình thì lại khác. Nói điều này với mình thật khó. Dẫu biết rằng nước mắt và sự lo lắng sẽ không giải quyết được vấn đề...
Đành phải chấp nhận và đương đầu với sự thật. Cuộc sống là như vậy, niềm vui và nỗi buồn cứ nối tiếp nhau. Và mình sẽ đứng vững. Vì qua những ngày này mình mới thấy có rất nhiều người quan tâm đến mình.
Vậy bạn đừng hỏi "mày có lúc nào buồn không?". Có chứ, mỗi người mỗi cảnh mà mày...